BHTN: Đóng 12% hưởng 180%, bài toán khó trong quản lý thị trường lao động

Chế độ Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) được kỳ vọng nhằm hỗ trợ người lao động trong thời gian mất việc. Tuy nhiên, thực tế đang nảy sinh tình trạng lợi dụng chính sách này để hưởng lợi, khiến quỹ BHTN đứng trước bài toán khó trong quản lý thị trường lao động.

BHTN: Đóng 12% hưởng 180%, bài toán khó trong quản lý thị trường lao động

Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) là chế độ xã hội nhằm hỗ trợ người lao động khi mất việc. Để tham gia BHTN, người lao động đóng 1% tiền lương tháng, người sử dụng lao động đóng 1% và Nhà nước hỗ trợ tối đa 1%. Như vậy, quỹ BHTN thu 36% tiền lương tháng của người lao động mỗi năm, trong đó người lao động chỉ đóng 12%.

Tuy nhiên, khi hưởng, người lao động được nhận nhiều quyền lợi như trợ cấp thất nghiệp, bảo hiểm y tế miễn phí và chi phí hỗ trợ học nghề. Riêng trợ cấp thất nghiệp, mức hưởng hằng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng BHTN của 6 tháng liền kề trước khi thất nghiệp. Người lao động đóng đủ 12 tháng đến 36 tháng thì được hưởng 3 tháng trợ cấp thất nghiệp. Sau đó, cứ đóng thêm 12 tháng thì được hưởng thêm 1 tháng trợ cấp, tối đa không quá 12 tháng.

BHTN: Đóng 12% hưởng 180%, bài toán khó trong quản lý thị trường lao động

BHTN hoạt động theo nguyên tắc chia sẻ gánh nặng tài chính giữa những người đang làm việc và những người thất nghiệp. Tuy nhiên, điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp rộng rãi đang tạo cơ hội cho một số người lợi dụng chính sách này để hưởng lợi. Điển hình là tình trạng nghỉ việc chủ động để được hưởng trợ cấp trong thời gian đủ 12 tháng đóng BHTN.

Nghĩa là, người lao động đóng BHTN với số tiền bằng 12% lương tháng (trong 12 tháng) nhưng họ được hưởng trợ cấp trong 3 tháng, mỗi tháng bằng 60% lương tháng (tương đương 180%). Lợi ích lớn này dẫn đến tình trạng một số người thích nghỉ việc để hưởng trợ cấp thất nghiệp.

Theo cán bộ công đoàn một công ty may mặc, hơn 50% lao động nghỉ việc mỗi năm tại đơn vị là chủ động nghỉ việc để hưởng trợ cấp. Thậm chí, có trường hợp đang hưởng trợ cấp thất nghiệp vẫn xin làm tiếp tại doanh nghiệp cũ theo dạng thời vụ, không tham gia bảo hiểm. Khi hết thời gian hưởng trợ cấp, họ mới ký hợp đồng lao động và tham gia bảo hiểm trở lại.

Thống kê của Trung tâm Dịch vụ việc làm TPHCM cũng cho thấy, nhóm đăng ký thất nghiệp nhiều thường là lao động trẻ tuổi (dễ xin việc hơn), thời gian đóng BHTN ngắn (thường là 1-2 năm) và lao động phổ thông (doanh nghiệp có nhu cầu tuyển dụng cao nên không sợ mất việc).

Tình trạng nghỉ việc chủ động để hưởng trợ cấp thất nghiệp không chỉ gây hại cho quỹ BHTN mà còn ảnh hưởng đến công tác thống kê thông tin thị trường lao động. Bởi số liệu thất nghiệp được thống kê chắc chắn có một số không nhỏ là những người thích thất nghiệp, chủ động nghỉ việc để hưởng trợ cấp.

Số liệu thống kê sai lệch sẽ dẫn đến đánh giá cung cầu và thực trạng thị trường lao động không chính xác, ảnh hưởng đến các dự báo kinh tế và xây dựng chính sách không sát thực tiễn thị trường.

Theo quy định hiện hành, người lao động chỉ cần đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đúng pháp luật là đủ điều kiện để hưởng trợ cấp thất nghiệp. Do đó, tình trạng lợi dụng chính sách này rất khó ngăn chặn vì người lao động vẫn thực hiện đúng quy định.

Để giải quyết bài toán này, cần có những chính sách siết chặt hơn điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp, tăng cường quản lý và giám sát quỹ BHTN, ngăn chặn tình trạng trục lợi chính sách. Đồng thời, cần nâng cao nhận thức của người lao động về mục đích và ý nghĩa thực sự của BHTN, tránh lợi dụng chính sách để hưởng lợi cá nhân.

BHTN là chế độ xã hội thiết yếu hỗ trợ người lao động khi mất việc. Tuy nhiên, việc lợi dụng chính sách BHTN đang làm tổn hại đến quỹ này và gây nhiễu loạn thị trường lao động. Để bảo đảm tính bền vững của BHTN và sự công bằng trong xã hội, cần có những biện pháp mạnh mẽ để ngăn chặn tình trạng trục lợi chính sách, đảm bảo chế độ BHTN hoạt động đúng mục đích, hỗ trợ hiệu quả cho những người lao động thực sự cần thiết.